Quá cảnh là gì?
Quá cảnh hàng hóa là việc vận chuyển hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, kể cả việc trung chuyển, chuyển tải, lưu kho, chia tách lô hàng, thay đổi phương thức vận tải hoặc các công việc khác được thực hiện trong thời gian quá cảnh.
Dịch vụ quá cảnh hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân thực hiện việc quá cảnh cho hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam để hưởng thù lao. (Theo Luật thương mại năm 2005).
Xem thêm: Các hình thức trung chuyển hàng hóa quốc tế phổ biến hiện nay
Điều 242 LTM 2005 quy định: “Mọi hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài đều được quá cảnh lãnh thổ Việt Nam và chỉ cần làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập và cửa khẩu xuất theo quy định của pháp luật, trừ các trường hợp sau đây:
Hàng hóa là các loại vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ và các loại hàng hóa có độ nguy hiểm cao khác, trừ trường hợp được Thủ tướng Chính phủ cho phép;
Hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu chỉ được quá cảnh lãnh thổ Việt Nam khi được Bộ trưởng Bộ Thương mại cho phép.”
Quá cảnh được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cung ứng dịch vụ. Hàng hóa quá cảnh vào và ra khỏi Việt Nam phải theo đúng cửa khẩu, tuyến đường quy định, lượng hàng xuất ra phải đúng bằng lượng hàng nhập vào, nguyên đai, nguyên kiện. Bên cạnh đó, hàng hóa khi vào lãnh thổ Việt Nam phải chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan Việt Nam trong toàn bộ thời gian quá cảnh.
Muốn quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam phải thuê thương nhân Việt Nam kinh doanh dịch vụ quá cảnh thực hiện; trừ trường hợp: Việc tổ chức; cá nhân nước ngoài tự mình thực hiện Quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam; thuê thương nhân nước ngoài thực hiện quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam thì được thực hiện theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về xuất cảnh, nhập cảnh và giao thông vận tải.
Hàng hóa không được lưu kho tại Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 246 Luật thương mại 2005.
Thời gian quá cảnh lãnh thổ Việt Nam tối đa là ba mươi ngày kể từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập, trừ trường hợp hàng hóa được lưu kho tại Việt Nam hoặc bị hư hỏng, tổn thất trong quá trình quá cảnh.
Ví dụ: Hoạt động vận chuyển từ Malaysia sang Lào, để vận chuyển mặt hàng này thường phải để hàng hóa từ Malaysia sang Việt Nam sau đó tiếp tục từ Việt Nam sang Lào. Vì vậy, hành trình từ Malaysia sang Lào phải đi qua nước thứ 3 là Việt Nam nên hoạt động này được gọi là quá cảnh.