Chuyển khẩu là hình thức hàng hóa được mua từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ khác mà không phải làm các thủ tục về xuất khẩu và nhập khẩu hay các điều khoản trong thương mại quốc tế (incoterms) của nước Việt Nam.
Khái niệm chuyển khẩu hàng hóa được đề cập tại khoản 1 Điều 30 Luật Thương mại 2005 là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Các loại hàng hóa đều được phép kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu. Thủ tục chuyển khẩu qua cửa khẩu Việt Nam được giải quyết tại chi cục Hải quan cửa khẩu trừ:
- Hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu.
- Hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.
- Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân được thực hiện chuyển khẩu qua cửa khẩu Việt Nam sau khi có giấy phép của Bộ Công Thương.
Các hình thức chuyển khẩu
- Hàng hóa được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu không qua cửa khẩu Việt Nam.
- Hàng hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
- Hàng hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam và đưa vào kho ngoại quan, khu vực trung chuyển hàng hóa tại các cảng Việt Nam, không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Chuyển khẩu được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt: Hợp đồng mua hàng do thương nhân Việt Nam ký với thương nhân nước xuất khẩu và Hợp đồng bán hàng do thương nhân Việt Nam ký với thương nhân nước nhập khẩu. Hợp đồng mua hàng có thể ký trước hoặc sau hợp đồng bán hàng.
Ví dụ: Công ty A tại Việt Nam mua máy cẩu của công ty B có trụ sở tại Hoa Kỳ, nhưng không trực tiếp nhập khẩu vào Việt Nam mà bán thẳng cho công ty C tại Ấn Độ.