Trong xuất nhập khẩu chắc hẳn các bạn sẽ nghe cụm từ Consignee. Vậy Consignee là gì? Bài viết sau đây sẽ giải đáp được phần nào câu hỏi của bạn.
Người nhận hàng là gì?
Người nhận hàng (Consignee) là cá nhân, tổ chức được người vận chuyển chuyển giao hàng hóa tại cảng trả hàng.
Consignee hay viết tắt cnee. Là người nhận hàng, đồng thời cũng là người mua hàng (buyer). Consignee là người hoặc tổ chức được chỉ định nhận hàng hoá hoặc hàng hóa được vận chuyển từ một địa điểm đến đích cuối cùng. Consignee là người mà hàng hóa được gửi đến hoặc người nhận cuối cùng của một giao dịch vận chuyển
Đặc điểm của người nhận hàng (consignee)
Theo vận đơn đích danh (là vận đơn mà ghi rõ tên và địa chỉ người nhận hàng và người vận chuyển chỉ giao hàng cho người có tên trên vận đơn.Lưu ý: Vận đơn này không được chuyển nhượng bằng phương pháp thông thường, muốn chuyển nhượng phải tuân theo quy định pháp luật nơi diễn ra hành động chuyển nhượng).
Còn theo vận đơn vô danh không ghi chính xác thông tin liên hệ của người nhận hàng, ai cầm vận đơn này đều có thể tiến hành nhận hàng), thì consignee chỉ được hiểu đơn giản là người nhận hàng chứ không phải người mua hàng.
Thông thường với những hàng hóa xuất lẻ, vai trò của người nhận hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nên các công ty vận chuyển thường hỏi người nhận hàng là tổ chức (công ty, doanh nghiệp) hay cá nhân. Họ là chủ sở hữu cuối cùng của hàng hóa, nhưng đôi khi có thể là đại lý hoặc chủ hàng,…
Trong ngữ cảnh vận chuyển hàng hóa, consignee thường được xác định trong hợp đồng mua bán hoặc vận chuyển và có thể là người mua hàng, người sở hữu hàng hoá hoặc người được ủy quyền nhận hàng. Consignee có trách nhiệm kiểm tra và nhận hàng hóa khi chúng được giao tới địa chỉ đích cuối cùng và có thể phải thực hiện các thủ tục liên quan đến thông quan và thanh toán hàng hóa.
Trong một số trường hợp, consignee có thể chỉ định một bên thứ ba nhận hàng hoá thay mặt mình, chẳng hạn như một công ty giao nhận hoặc đại lý vận tải. Trong trường hợp này, consignee vẫn là người nhận hàng cuối cùng và có trách nhiệm xác nhận và kiểm tra hàng hóa sau khi được nhận từ bên thứ ba.
Tùy thuộc vào các quy định, thủ tục trong quá trình thông quan của nước đến mà người nhận hàng có thể được yêu cầu có mặt trực tiếp để tiếp nhận lô hàng ở cảng hoặc ga vận chuyển.
Một số lưu ý về Consignee
Đa số các vận đơn vận tải biển hiện nay thì consignee chính là notify party là đơn vị được thông báo khi tàu cập cảng đích.
Vận đơn thông thường yêu cầu đầy đủ các thông tin chi tiết của consignee như địa chỉ, email, fax, số điện thoại cũng như các thông tin khác có liên quan. Đó là vận đơn đích danh của consignee.
Còn đối với vận đơn vô danh thì bất cứ ai cầm được bill cũng có thể nhận hàng vì vận đơn không ghi lệnh cũng không ghi tên của người nhận hàng cụ thể, có thể chuyển nhượng được bằng cách trao tay.
Người mang theo vận đơn vô danh có thể xem như một consignee nhận hàng.
Phân biệt giữa Consignee – Shipper và Seller – Buyer
Ngoài băn khoăn Consignee(Cnee) là gì thì cách phân biệt Shipper Consignee và Seller Buyer cũng được khá nhiều người quan tâm tìm hiểu. Sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm này khiến bạn rất dễ sai xót, nhầm lẫn trong quá trình làm việc.
Trong hợp đồng mua bán ngoại thương sẽ có hai chủ thể rõ ràng là Người bán(Seller) và Người mua(Buyer) nhưng trong chứng từ vận đơn lại sử dụng Shipper và Consignee. Vậy tại sao mọi người lại sử dụng các thuật ngữ này?
Đối với hợp đồng mua bán, người bán sẽ được gọi là người bán (Seller) hoặc người xuất khẩu. Khi một thư tín dụng được phát hành, người bán không được gọi là người bán, mà là người thụ hưởng, và người mua được gọi là người chuyển tiền(Remitter) – nghĩa là người trả tiền hoặc người gửi tiền.
Trường hợp vận đơn được phát hành, người bán được gọi là Shipper và người mua được gọi là Consignee(Cnee). Nhiều trường hợp công ty đã tìm được đối tác xuất nhập khẩu hàng hóa nhưng vẫn chưa làm thủ tục, cần đến bên thứ 3 làm trung gian cung cấp dịch vụ vận chuyển.
Vì vậy, nhà xuất khẩu cần biết ai là người bán và ai là người mua để tránh tình trạng gửi nhầm hàng hoặc gặp rắc rối không mong muốn. shipper chỉ đóng vai trò là đơn vị trung gian mua hàng và shipper sẽ bán lại hàng cho nhà nhập khẩu. Bên mua cũng có thể nhớ công ty Forwarder (FWD) nhận hàng để đơn giản hóa các thủ tục giấy tờ và giảm thiểu chi phí,…
Mối liên hệ giữa Notify party và Consignee
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, Notify Party chính là đơn vị được thông báo khi tàu cập cảng đích. Khi có thông báo, đơn vị này sẽ báo cho consignee đến nhận hàng.
Trong nhiều trường hợp thì Notify party cũng chính là Consignee. Hoặc Notify party ở đây được chuyển nhượng sang một consignee khác.
Nhưng hiện nay, đa số Consignee chính là Notify party để tiết kiệm chi phí, cũng như giúp quá trình nhận hàng trở nên nhanh chóng và thuận lợi hơn.
Căn cứ vào sự sở hữu và tính chuyển nhượng mà mối quan hệ giữa Consignee và Notify sẽ cụ thể như sau:
Nếu consignee là “ To order hay to order of shipper ..”
Notify party là công ty Forwarder C. FWD C có quyền nhận hàng, làm thủ tục thông quan hàng hóa và giao hàng cho Consignee tại địa điểm nhận hàng cuối cùng trước khi vận đơn ký hậu được giao
Notify party là công ty D. Khi đó, hàng cập bến cảng đích sẽ có thông báo hàng đến cho người nhận hàng cuối cùng luôn mà không thông qua bất kỳ bên nào khác nữa.
Nếu consignee là “ To order of bank…”
Notify party là công ty Forwarder C. FWD C sẽ nhận hàng, làm thủ tục thông quan hàng hóa, lấy hàng và giao cho Consignee tại địa điểm nhận hàng cuối cùng.
Notify party là công ty D. Hàng cập bến cảng sẽ có thông báo hàng đến cho người nhận hàng cuối cùng. Consignee sẽ phải thanh toán cho ngân hàng một khoản nhất định ( đã được thỏa thuận trong hợp đồng mua bán). Sau đó, consignee mới lấy được vận đơn ký hậu bản gốc để đi lấy hàng hóa tại cảng.
Nếu consignee là Company
Notify party là công ty Forwarder C. FWD C sẽ nhận hàng, làm thủ tục thông quan hàng hóa, lấy hàng và giao cho Consignee tại địa điểm nhận hàng cuối cùng.
Notify party là “ Same as Consignee” .Trong trường hợp này, notify party không có thông tin cụ thể về bên nhận thông báo. Consignee trong trường hợp này phải thể hiện đầy đủ thông tin để liên lạc.
Nếu consignee là cá nhân
Notify party là cá nhân. Trường hợp này có thể Cnee cũng có thể là shipper, khi đây là hàng hóa cá nhân.
Notify party là công ty forwarder C. FWD C được ủy quyền để nhận hàng và thông quan hàng hóa cho consignee.
Notify party là “ Same as cnee”. Nghĩa là không có thông tin cụ thể về bên nhận thông báo hàng. Consignee trong trường hợp này phải thể hiện đầy đủ thông tin để liên lạc.
Nói chung, tùy theo điều khoản của hợp đồng mua bán và tình hình của từng doanh nghiệp mà có thể lựa chọn các thuật ngữ phù hợp cho từng trường hợp riêng.
Buyer – consignee trên chứng từ có vai trò gì?
Buyer:
Là người nhập khẩu, là doanh nghiệp cuối cùng nhận hàng và chịu trách nhiệm đứng tên trong hợp đồng mua bán. Người chịu trách nhiệm thanh toán cho lô hàng của mình. Trường hợp buyer tự đứng tên và chịu trách nhiệm nhập hàng với hãng vận tải. Thì khi làm Bill off lading Buyer cũng sẽ đứng tên ở khung Consignee. Lúc này, người bán cũng chính là người nhận hàng.
Consignee:
Là người nhận hàng từ shipper hoặc người bán.Trên thực tế, nhiều buyer không có chức năng nhập khẩu, không rõ hết các nghiệp vụ trong quá trình làm hàng nhập. Họ muốn đơn giản hóa thủ tục nên giao cho bên thứ ba đứng ra làm thủ tục. Khi đó consignee sẽ là bên thứ ba. Và khi nhận hàng xong bên thứ ba này mới giao lại cho người nhập khẩu là Buyer.
Lúc này Consignee cũng chính là forwarder đầu nhập với trường hợp thuê dịch vụ hoặc thuê nhập ủy thác.
Như vậy chúng ta có thể hiểu với nhau: trên hợp đồng ngoại thương ( sales contract, P0, thư thỏa thuận xuất nhập hàng, Hợp Đồng Mua hàng ) .Thì seller – Buyer là người sở hữu hàng thực thụ có trách nhiêm trả chi phí cho việc mua bán hàng hóa.
Còn trên bộ chứng từ làm thủ tục khai báo hải quan thì tùy trường hợp để biết ai là người bàn – mua thực tế.